Những người nông dân nuôi lông thiếu kinh nghiệm có thể khó hiểu ngay được nutria khác với rái cá và xạ hương như thế nào. Các loài động vật rất giống nhau, dành nhiều thời gian ở dưới nước và thuộc họ gặm nhấm. Nhưng cũng có những tính năng khác nhau, bên ngoài và khác. Mỗi nhóm động vật có vú đều có những thói quen, đặc điểm sinh sản, sở thích về thức ăn và môi trường sống riêng.
Mô tả động vật
Bề ngoài, các con vật trông giống như những con chuột lớn. Đuôi dài, hàm răng sắc nhọn và móng vuốt giúp sống sót trong điều kiện khó khăn. Loài gặm nhấm cảm thấy thoải mái cả trên cạn và trong môi trường dưới nước.
Nutria
Nutria là một loài động vật khá lớn. nặng tới 12 kg, còn được gọi là hải ly đầm lầy. Các đặc điểm khác của loài gặm nhấm:
- Cơ thể khỏe và dài (0,5 mét không kể đuôi), đầu nhỏ.
- Răng nanh có màu cam.
- Hai chân sau có màng, chi trước có 5 ngón.
- Màu nâu, có lông nhạt hơn ở bụng.
Da Nutria bền hơn da cáo nhiều lần và các sợi dài hơn da thỏ. “Áo khoác lông” có đặc điểm đẹp nhất vào mùa đông. Nhờ màng, hải ly nổi tốt trên mặt nước và có thể lặn.
Con vật có thể ở độ sâu gần 10 phút. Cấu trúc đặc biệt của đôi môi khép chặt và sự hiện diện của các cơ khóa trong mũi cho phép chúng gặm nhấm thân cây trong nước.
Các loài động vật không thích cái lạnh, mặc dù bộ lông dày của chúng. Nutria tránh những vùng có thời tiết băng giá kéo dài. Động vật không biết cách tìm thức ăn dưới tuyết.
Rái cá
Rái cá là động vật săn mồi. Họ có lối sống bán thủy sinh. Mõm của động vật thon dài, giống như cơ thể. Cơ thể đạt chiều dài gần một mét. Tính năng đặc trưng:
- Bàn chân có màng ngắn.
- Đuôi có vảy dài từ 26 đến 55 cm.
- Bộ lông có màu sẫm với tông màu nâu ở lưng và màu xám với tông màu bạc ở bụng.
Mật độ che phủ của rái cá cao hơn so với nutria. Mỗi cm vuông chứa ít nhất 50 nghìn sợi. Nước không thể làm ướt làn da mịn màng. Khả năng này cho phép con vật không bị đóng băng ngay cả trong nước băng giá. Lông rái cá có giá trị trên toàn thế giới. Để có được nguyên liệu thô có giá trị, động vật được nuôi nhốt đặc biệt.
xạ hương
Chuột xạ hương, hay chuột xạ hương, thuộc một lớp con của chuột đồng. Bề ngoài, các con vật trông giống như những con chuột lớn màu xám. Tính năng đặc biệt:
- Thân hình bầu dục dài 35 cm và đuôi dẹt có cùng kích thước.
- Chân sau có màng.
- Một cái đầu nhỏ với mõm cùn trên cổ ngắn. Đôi tai gần như vô hình do bộ lông dày.
- Môi vừa khít với răng cửa. Giống như hải ly, xạ hương có thể kiếm ăn dưới nước.
- Da có màu sẫm ở phía trên và màu xám với màu xanh lam ở phần dưới cơ thể.
Chuột xạ hương sử dụng chiếc đuôi có vảy của mình làm bánh lái khi di chuyển trong nước.
Điểm tương đồng và khác biệt chính
Loài nặng nhất trong bộ ba loài gặm nhấm là nutria. Con đực trưởng thành nặng khoảng 12 kg. Rái cá chậm hơn một chút, trọng lượng cơ thể của chúng đạt tới 10 kg. Về vấn đề này, xạ hương nổi bật giữa các đồng nghiệp của họ. Các con vật rất nhẹ - chỉ 1,8 kg. Có những điểm tương đồng và khác biệt ở những đặc điểm khác.
Họ ăn gì?
Sở thích ăn uống của các loài động vật khá giống nhau, nhưng không phải ở mọi thứ.
Tên động vật | Ăn kiêng |
Nutria | Cơ sở của thức ăn hải sản là thảm thực vật ven hồ hoặc sông, cũng như thảm thực vật thủy sinh. Đôi khi động vật ăn ếch, động vật có vỏ hoặc cá. |
xạ hương | Con vật cũng ăn thức ăn thực vật. Thích lau sậy và cây tật lê, thích lau sậy, đuôi mèo hoặc đầu mũi tên. Bắt sa giông hoặc đỉa, nhưng chỉ khi nó thiếu thức ăn xanh. Thức ăn chăn nuôi chiếm không quá 5% tổng lượng thức ăn. |
Rái cá | Những kẻ săn mồi nhỏ săn chim. Vịt và chim lội nước thường trở thành con mồi của rái cá. Nhưng thường xuyên hơn các loài động vật bắt cư dân sông. Thằn lằn, sa giông và ếch không bị bỏ qua. Để tìm kiếm thức ăn, động vật có thể di chuyển tới 15 km ngay cả trong mùa đông. |
Rái cá thích ăn thức ăn động vật hơn hai anh em còn lại của nó. Ngoài ra còn có sự khác biệt giữa chuột xạ hương và hải ly đầm lầy.Những con trước đây xây dựng hang để lưu trữ nguồn thức ăn mùa đông. Sau này không bao giờ dự trữ thực phẩm.
Sống ở đâu
Sự khác biệt giữa hải ly và chuột xạ hương được thể hiện ở thái độ của chúng đối với cái lạnh. Hải ly đầm lầy không chịu được sương giá; chuột xạ hương phát triển mạnh trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Rái cá cũng không sợ mùa đông khắc nghiệt.
Động vật sống:
Tên | Môi trường sống |
Nutria | Từ Nam Mỹ, động vật được đưa đến châu Âu và các vùng Transcaucasia. Động vật cũng có thể được tìm thấy ở Kyrgyzstan. |
xạ hương | Châu Mỹ, chỉ phần phía bắc của lục địa, cũng được coi là quê hương của loài chuột xạ hương. Chuột xạ hương cũng phổ biến ở các nước Á-Âu. Ở Nga họ sống ở Kamchatka, Viễn Đông và Siberia. |
Rái cá | Phân phối ở châu Âu. Sống ở khu vực Bắc Phi và Châu Á. Magadan, Chukotka và các vùng khác có số lượng rái cá lớn. |
Nutria thường sống gần các vùng nước. Động vật hình thành các đàn nhỏ lên tới 15 cá thể. Hang được đào ở các sườn dốc dọc theo bờ.
Chuột xạ hương cũng thích những khu vực có nhiều cây cối rậm rạp dọc theo các con sông. Lối vào hang thường ẩn dưới nước. Động vật cũng làm nhà trên những luống sậy. Động vật không sống theo bầy đàn. Các gia đình riêng lẻ chiếm giữ các khu vực kiếm ăn khác nhau.
Rái cá có lối sống đơn độc. Điểm tương đồng với các thành viên khác trong gia đình được thể hiện ở việc ưa thích những khu vực có thảm thực vật mọc um tùm gần nước. Ở những nơi như vậy rất dễ bắt cá và tìm một nơi trú ẩn hẻo lánh.
Đặc điểm sinh sản
Thời kỳ mang thai của cả ba loài gặm nhấm đều khác nhau. Có những khác biệt khác:
Loài động vật có vú | Sinh sản |
Nutria | Hải ly đầm lầy mang con non trong 130 ngày. Nhiệt tình dục xảy ra mỗi tháng một lần. Có tới 6 con trong một lứa.Con cái sinh con ba lần một năm. |
xạ hương | Mang thai chỉ kéo dài một tháng. Chúng sinh sản quanh năm ở những vùng ấm áp và ở vùng có khí hậu lạnh vào mùa xuân và mùa hè. Có một lần, con cái sinh ra tới 8 cá thể. |
Rái cá | Quả được hình thành trong 2 tháng. Mỗi lứa có tới 4 con. Rái cá giao phối quanh năm. |
Đặc điểm nổi bật của rái cá là thời gian mang thai ngắn. Trong điều kiện thuận lợi, con cái được sinh ra sau 63 ngày. Trong thời tiết băng giá và khi thức ăn khan hiếm, con cái không sinh con. Động vật bắt đầu kêu la khi hoàn cảnh thay đổi tốt hơn. Đôi khi thai kỳ kéo dài 270 ngày. Nông dân quan tâm đến động vật vì bộ lông quý giá của chúng. Nutria cũng được nuôi để lấy thịt hữu ích.