Yến mạch được sử dụng trong nông nghiệp làm cây lương thực và thức ăn chăn nuôi. Nó được đặc trưng bởi năng suất và chất lượng tuyệt vời, và được ưa chuộng trong số các loại ngũ cốc khác. Chúng ta hãy xem xét các loại cây, mô tả và đặc điểm của các giống yến mạch tốt nhất, cũng như các đặc điểm tùy thuộc vào loại: mùa đông, mùa xuân, trần và có màng.
Các loại yến mạch hiện có
Có 22 loài thuộc chi yến mạch thuộc họ ngũ cốc.Gieo tổ yến là cây nông nghiệp. Chi này cũng bao gồm các loại yến mạch: yến mạch Abyssinian, yến mạch có râu, yến mạch nghi ngờ, yến mạch rỗng hoặc hoang dã, yến mạch Ma-rốc, trần trụi, vô trùng, có lông, Volga và các loại khác.
Các loại yến mạch, giống như các loại cây trồng khác, được khoanh vùng, nghĩa là chúng được khuyến khích trồng ở một số vùng nhất định. Ví dụ: các giống được phân vùng trong CBD là: Podgorny, Utes, Everest, Guzeripl, Mezmay, Oshten, Verny, Adygeisky 575, Adygeisky 19, Nalmes và AGU-75.
Các giống tốt nhất
Các loại yến mạch mùa xuân và mùa đông đã được đăng ký vào Cơ quan đăng ký nhà nước. Chúng có những đặc điểm, hướng sử dụng khác nhau, đó là ngũ cốc hoặc thức ăn ngũ cốc.
Merlin
Giống mùa xuân, thức ăn hạt. Nên trồng ở vùng Tây Bắc và Volga-Vyatka. Đặc điểm: bụi trung bình, chiều cao trung bình. Những chiếc gai đang rũ xuống. Spinus yếu hoặc vắng mặt. Các hạt có kích thước lớn và vừa phải. Trọng lượng một nghìn hạt là 32-39 g, năng suất 35,6 c/ha, vượt tiêu chuẩn 2 c/ha, thu hoạch tối đa 81,8 c/ha/ha. Là giống giữa sớm, mùa sinh trưởng kéo dài 73-94 ngày, quá trình chín sớm hơn giống Fakir 2-4 ngày.
Yến mạch Krechet có khả năng chịu hạn hán và trú ẩn ở mức độ vừa phải. Vào năm đặc điểm này xuất hiện, nó dễ bị trú ngụ. Yến mạch màng mỏng, có giá trị về chất lượng. Tỷ lệ protein là 9,0-13,2%. Giống dễ bị bệnh bạc lá, bệnh than đen, đốm nâu đỏ và bệnh gỉ sắt.
Argamak
Sự đa dạng thuộc về thức ăn gia súc ngũ cốc. Giữa mùa, có giá trị về chất lượng. Được trồng ở miền Trung, Tây Bắc, Volga-Vyatka, miền Bắc. Caryopsis có màng, màu vảy hoa màu trắng. Trọng lượng của một nghìn hạt nằm trong khoảng 32-36 g.Hạt mịn, có chất lượng dinh dưỡng tuyệt vời. Hàm lượng protein – 14,6%. Năng suất đạt 29 tấn/ha, vượt tiêu chuẩn 0,2 tấn/ha.
kèn
Yến mạch làm thức ăn gia súc, một loại giữa mùa với hạt có màng. Giống có khả năng chống đổ ngã và không bị nấm mốc hoặc rỉ sét vương miện. Chịu hạn. Yến mạch Trump có năng suất cao; 60,8 c/ha có thể được thu hoạch trên mỗi ha. Hạt to, nghìn hạt nặng 34,4-37,2 g, hàm lượng protein 11-13%.
dáng đi
Thuộc nhóm thức ăn gia súc có hạt. Hạt bán thon dài, khối lượng 1 nghìn hạt 33-38 g, năng suất bình quân 36 c/ha. Giống là giữa vụ, thời vụ sinh trưởng kéo dài 79-89 ngày. Chịu úng, chịu hạn trung bình. Giống có giá trị, hàm lượng protein – 12-18%. Không có khả năng chống bệnh gỉ sắt, tán và thân.
Đấu sĩ
Các loại ngũ cốc làm thức ăn gia súc. Hạt lớn, trọng lượng một nghìn hạt - 37-43 g Năng suất - 30,9 c/ha, cao hơn tiêu chuẩn 2,1 c/ha. Giữa vụ, mùa sinh trưởng kéo dài 79-93 ngày, chín cùng với giống Skakun. Giống có khả năng chịu hạn hán và trú ẩn ở mức độ trung bình. Nó thuộc về giống có chất lượng có giá trị. Hàm lượng protein – 9,7-15,8%. Nó bị ảnh hưởng bởi bệnh gỉ sắt, than đen, bệnh bạc lá, bệnh phấn trắng và đốm nâu đỏ.
thuận tay trái
Hạt có kích thước trung bình, khối lượng 1 nghìn hạt 27-38 g, hàm lượng protein cao. Năng suất – 18-47 c/ha. Thời gian từ vụ sinh trưởng đến khi chín là 60 ngày. Nó không bị héo, không bị ảnh hưởng bởi than đen và có khả năng chịu hạn hán và sương giá. Giống bị ảnh hưởng bởi bệnh cháy lá và đốm nâu đỏ.
Irtysh 22
Các loại thức ăn gia súc có hạt, trung bình đến muộn. Quả to, trọng lượng một nghìn hạt đạt 38-44 g, năng suất bình quân 55,9 c/ha. Mùa sinh trưởng kéo dài 77-94 ngày.Về khả năng chống chịu hạn hán và trú ẩn thì kém hơn so với tiêu chuẩn. Hàm lượng protein – 9,1-11,5%. Giống có khả năng kháng bệnh than đen và dễ bị bệnh gỉ sắt.
yakov
Giữa mùa, thức ăn gia súc cho ngũ cốc. Hạt to, nghìn hạt nặng 34-42 g, năng suất 39,4 c/ha. Mùa sinh trưởng kéo dài 82-95 ngày. Trên mức trung bình có khả năng chống chịu và chịu hạn. Hàm lượng protein trong hạt là 11,9-12,8%. Giống dễ bị bệnh gỉ sắt và không bị ảnh hưởng bởi bệnh than đen.
đi kèm
Thức ăn gia súc cho ngũ cốc, vào giữa sớm. Mùa sinh trưởng kéo dài 75-100 ngày. Hạt dạng màng, chứa tới 12% protein, 1 nghìn hạt nặng 35 g.
Các loại yến mạch tùy theo loại
Các loại yến mạch, giống như một số loại ngũ cốc khác, được chia thành mùa xuân và mùa đông theo phương pháp canh tác, cũng như theo cấu trúc của hạt - thành không vỏ và có màng.
Giống mùa đông
Yến mạch mùa đông có thể chịu được mùa đông dưới tuyết vì chúng có khả năng chịu lạnh. Các giống mùa đông bắt đầu phát triển nhanh hơn vào mùa xuân, cho phép thu hoạch sớm hơn. Nhìn chung, cây vụ đông cho năng suất cao hơn vụ xuân.
Giống mùa xuân
Những giống yến mạch này có mùa sinh trưởng ngắn hơn so với yến mạch mùa đông. Điều này cho phép bạn gieo nó vào mùa xuân, khi thời tiết ấm áp đến và thu hoạch vào mùa hè cùng năm. Ưu điểm của giống vụ xuân: cây hấp thụ chất dinh dưỡng tốt hơn và cho hạt có chất lượng nướng tốt hơn.Các giống chịu hạn tốt hơn, ít đòi hỏi đất đai hơn nhưng dễ bị thay đổi điều kiện thời tiết. Ví dụ về các giống: Otrada, Skakun, Kozyr, Foma, Ivory, Stipler.
Yến mạch không vỏ
Các loại ngũ cốc thuộc loại cây trồng này có giá trị vì chúng chứa nhiều protein, tinh bột và chất béo hơn các loại hạt có màng. Thân và lá của cây trồng được sử dụng làm thức ăn xanh cho gia súc ở dạng tươi và dưới dạng rơm. Yến mạch tách vỏ được gieo trộn với các loại đậu, dùng làm cây trồng bỏ hoang và làm tiền chất chính cho cây trồng vụ đông ở những vùng có đủ độ ẩm. Hay làm từ hỗn hợp yến mạch-đậu được coi là chất lượng cao.
Yến mạch không vỏ chứa các protein có giá trị và các axit amin thiết yếu, chất xơ giúp phục hồi hệ vi sinh đường ruột. Các sản phẩm yến mạch loại này có lượng calo cao hơn so với các loại ngũ cốc khác, giàu protein và chất béo. Do chứa một lượng lớn chất nhầy nên các sản phẩm làm từ vỏ yến mạch có đặc tính ăn kiêng.
Giống trần dễ trồng hơn, có khả năng chống rụng lá, đây là một trong những ưu điểm so với giống có màng. Yến mạch vỏ có thể được sử dụng làm thức ăn và nấu ăn mà không cần làm sạch trước. Ví dụ về các giống: Vyatsky, Ofenya, Solomon, Nemchinovsky 61, Levsha, Belorussky Golozerny.
Yến mạch màng
Phổ biến hơn việc đầu trần vì nó mang lại hiệu quả cao hơn. Các hình thức nuôi phổ biến của loại hình này là mutica, aristata và aurea. Ngược lại với hoa trần, hoa có thể có nhiều hơn 7, 2 hoặc 3. Các bông con có mái che hoặc không có mái. Các loại yến mạch dạng màng được chia thành loại có hình chùy và loại có bờm đơn. Những cái trước được phân biệt bằng cách phát ra những chùm hoa xòe, những cái sau đứng thẳng và hơi ép vào thân cây.Ví dụ về các giống: Lion, Talisman, Fighter, Gunter, Sapsan, Avatar.
Yến mạch là một trong những cây trồng chính được trồng ở Nga để sản xuất ngũ cốc làm thực phẩm và thức ăn chăn nuôi. Các giống cây trồng được chia thành mùa xuân và mùa đông, nhiều màng và trần trụi. Các giống khác nhau về đặc điểm, hình thức và nguồn gốc, khả năng kháng hoặc mẫn cảm với các bệnh khác nhau và cho năng suất khác nhau.
Tùy theo đặc điểm của giống cây trồng mà chúng nhận được những mục đích khác nhau. Cây trồng mùa đông chịu lạnh được trồng để thu hoạch sớm, trong khi cây trồng mùa xuân được trồng làm cây thức ăn gia súc chủ đạo, không thích nghi với điều kiện khí hậu ôn đới. Giống có màng chiếm phần lớn diện tích gieo trồng, giống trần trụi không quá phổ biến nhưng vượt trội hơn về nhiều đặc điểm.